Bạn đã bao giờ muốn giãi bày tình yêu với nửa kia của mình nhưng lại cảm thấy bất lực bằng lời nói?
Bạn với tin rằng mọi tiếng nói đều với những từ không thể dịch sang bất kỳ tiếng nói nào khác trên toàn cầu? Nó chỉ được mô tả hoặc khái niệm một cách chung chung, không thể dịch thành một từ cụ thể, kể cả bằng tiếng nói thông dụng nhất hiện nay: tiếng Anh.
Trong loạt ảnh dưới đây của họa sĩ minh họa Emma Block ở trên Huffington Postbạn sẽ học được 25 từ vựng tiếng Anh không với trong tiếng Anh về tình yêu rất hay.
27 từ không tồn tại trong tiếng Anh về tình yêu
Trong tiếng nói Urdu của Pakistan và Ấn Độ, từ “Nah” sử dụng để chỉ cảm giác tự hào lúc được yêu.

Người Romania miêu tả cảm giác khát khao lúc phải xa người thân chỉ gói gọn trong từ “Dor”.

Aay’han: khoảnh khắc buồn vui lộn lạo (Madnalorian)

Merak: cảm giác hạnh phúc trọn vẹn, với cả toàn cầu từ những điều thuần tuý nhất (tiếng Serbia)

Gealic, tiếng Ireland, mô tả nhịp đập của trái tim trong một từ với nội dung “Mo Chuisle Mo Chroí”. Mo chuisle mo chroi: Em là nhịp đập của trái tim anh

Onsra: từ miêu tả nỗi đau lúc biết rằng tình yêu sẽ không tồn tại trong tương lai (Boro)

Người xứ Wales gọi dòng ôm của người thương – nơi an toàn của người thân là “Cwtch”.

Người Trung Quốc với câu chúc phúc cùng nhau già đi. Zhí zǐ zhī shǒu, yǔ zi xiélǎo: Cùng chết, chung tay xông đầu.

Geborgenheit: cảm giác an toàn lúc những người yêu nhau ở bên nhau (tiếng Đức)

Thà sống thiếu người yêu còn hơn không sống, đó là ý nghĩa của từ “Ya’aburnee” trong tiếng Ả Rập.

Người Bồ Đào Nha lãng mạn dành hẳn một từ để miêu tả hành động luồn ngón tay qua tóc người yêu: “Cafuné”.

Người yêu chỉ với một tình yêu duy nhất trong đời, người đó được gọi là “Odnoliub” trong tiếng Nga.

“Hai shi shan meng”, người Trung Quốc nói lúc họ muốn hứa một tình yêu mãi mãi.

Sự rét mướt lúc được ở bên người mình yêu là “Gezelligheid” trong tiếng Hà Lan.

Tiếng Anh với từ “Fate” với tức là “số phận” một cách tổng quát. Và “Yuanfen” là Định mệnh, một sự sắp đặt bí mật đã đưa hai người tới với nhau theo cách nói của người Trung Quốc.

Các cặp đôi thường gặp phải tình huống hờn dỗi mà họ không thèm nhìn mặt nhau, dù đó chỉ là giả vờ sau một cuộc tranh cãi. Người Tamil đã trông thấy rất rõ sự giả vờ đáng yêu này và đặt tên cho nó là “Oodal”.

Cảm giác thích thú, thoải mái lúc đắm chìm trong tình yêu được gọi là “Forelsket” trong tiếng Đan Mạch.

Hành động thở vào cổ người yêu bằng mũi nhạy cảm cũng được đặt tên bằng tiếng Bồ Đào Nha, với từ “Cheiro no cangote”.

Sau khoảng thời kì xa cách, hai người yêu nhau đang đắm chìm trong niềm hạnh phúc lúc gặp lại nhau. Người Pháp đặt tên cho xúc cảm thăng hoa này là “Retrouvailles”.

Bạn đã bao giờ cảm thấy khó thở lúc gặp người trong mộng của mình chưa? Tagalog Đặt tên cho tình cảm này là “Kilig”.

Khi vướng vào lưới tình, kẻ si tình sẽ không còn ham ăn. “Manabamaste” là từ để chỉ cảm giác này trong tiếng nói của những người sống trên Đảo Phục Sinh.

Chỉ với tình yêu mới mang lại hạnh phúc giản đơn, đừng ghen tị lúc nhìn người mình yêu gặp điều may mắn. Từ tiếng Do Thái cho hạnh phúc này là “Firgun”.

Có những cặp đôi tới lúc xa nhau mới trông thấy rằng mình đang yêu. Tiếng Việt với từ gì để diễn tả tình huống này? Trong tiếng Hindi, từ đó là “Viraha”.

Khi bạn gặp một người mà bạn cảm thấy yêu mến, đó là “Koi no yokan” trong tiếng Nhật.

Mũi tên của thần thần tình yêu làm người nào đó phải lòng ngay lúc gặp người kia. Tình huống “yêu sét đánh” này được gọi là “Flechazo” trong tiếng Tây Ban Nha.

“Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”, cả hai rất yêu nhau nhưng chẳng người nào dám tới sắp, chỉ liếc nhìn nhau và cả hai đều kỳ vọng đối phương sẽ lần đầu tỏ tình. Cái nhìn phức tạp này còn được gọi là “Mamihlapinatapei” theo cách nói của người dân đảo Tierra del Fuego. Sách kỷ lục Guinness từng xác nhận đây là “từ động và súc tích nhất” trên toàn cầu.

Niềm khát khao được người thương yêu gọi là “Iktsuarpok” trong tiếng nói của người dân phương Bắc xa xôi.

Tổng hợp